Tháng chín 27, 2016
CLS – ADR tụt huyết áp
Trường hợp 1: Tác dụng phụ
Mẹ tôi lại bị ngã.
Dịch: SVD. Lê Phạm Phương Ngọc
Hiệu đính: TS.DS. Võ Thị Hà
Nguồn: Le Moniteur des Pharmacies. Cahier 2 N2913 7 Janvier 2012
C. tận tâm chăm sóc mẹ của cô ấy, bà G., bệnh nhân 82 tuổi am hiểu các nhóm thuốc. Cô ấy thường đến nhà thuốc mua thuốc. Từ nhiều năm nay, bà G. dùng Exforge 5/80 (amlodipine và valsartan) 1 lần/ ngày và Lescol 40 (fluvastatine) 1 lần/ ngày. Gần đây, bà được cho thêm thuốc Esidrex 25 (hydrochlorothiazide) dùng 1/2 viên mỗi ngày.
Sáng nay,C. rất lo lắng, đi mua thuốc kem bôi trị vết bầm bởi vì mẹ cô ấy bị ngã. Cô ấy giải thích rằng chuyện này thường xảy ra mỗi lần mẹ cô ấy đứng dậy nhanh chóng.
Phản ứng thế nào?
– Ngã làmột vấn đề nghiêm trọng trong lão khoa vì những hậu quả của nó trên thể chất và tâm lý. Mà chúng ta biết rằng một người cao tuổi ngã 1 lần thì nguy cơ có thể ngã những lần sau.
Phân tích ca:
– Sự lặp đi lặp lại của cảm giác khó chịu khi bà G. ngồi dậy bất thình lình, bà đang được điều trị bằng nhiều loại thuốc hạ huyết áp (1 thuốc được đưa vào gần đây), nghi ngờ có thể bà bị hạ huyết áp thế đứng.
– Việc chuyển đột ngột từ vị trí nằm hoặc ngồi sang đứng dẫn đến sự tích tụ máu ở chi dưới, đồng thời giảm máu trở về tĩnh mạch tim, gây ra hạ huyết áp.
Về nguyên tắc, thụ thề khí áp của động mạch chủ và động mạch cảnh bắt lấy tín hiệu thay đổi áp lực, và tín hiệu được truyền đến não gây ra 1 phản ứng nhẹ – cho phép cân bằng lại áp lực – gây nhịp tim nhanh và co mạch. Tuy nhiên, những thụ thể khí áp bị thay đổi ở người cao tuổi. Chính vì vậy nhiều khả năng gây khó chịu do hạ huyết áp thế đứng.
– Thuốc, nhất là thuốc hạ huyết áp là nguyên nhân hàng đầu gây hạ huyết áp thế đứng ở nhóm người cao tuổi. Việc phối hợp nhiều thuốc hạ huyết áp có nguy cơ hạ huyết áp thế đứng cao hơn ởnhững người phối hợp với thuốc lợi tiểu và những thuốc ức chế Calci hoặc thuốc ức chế men chuyển (IEC) hoặc là thuốc kháng angiotensin II (ARA II)
Vì vậy, theo HAS, ở những bệnh nhân trên 80 tuổi, không nên phối hợp nhiều hơn 3 loại thuốc hạ huyết áp, và mục tiêu huyết áp ít nghiêm ngặt hơn người trẻ tuổi (huyết áp tâm thu dưới 150mmHg, trong cơn vắng của hạ huyết áp thế đứng).
Thảo luận:
– Dược sĩ dự đoán với C. rằng rất có khả năng do hạ huyết áp thế đứng, đòi hỏi phải xem xét thuốc của bà G. Thật vậy, chẩn đoán hạ huyết áp thế đứng dựa trên thăm hỏi và kết quả lâm sàng (cảm giác chóng mặt, rối loạn thị giác, ù tai, đặc biệt mất cảm giác ở chân, ngã…) có thể khẳng định bằng các biện pháp đo huyết áp lúc nằm và sau đó huyết áp lúc đứng, so sánh 2 giá trị. Hơn nữa, bác sĩ xem xét tình hình cần thiết đánh giá lại liệu pháp hoặc kê đơn thuốc giảm áp lực lên tĩnh mạch, góp phần lưu lượng máu trở về tĩnh mạch. Về phần mình, dược sĩ đề nghị C. khuyên mẹ cô ấy ngồi dậy từ từ, chuyển từ vị trí nằm duỗi sang ngồi, sau đó từ vị trí ngồi sang đứng.
Hạ huyết áp thế đứng và các yếu tố nguy cơ
– Hạ huyết áp thế đứng được định nghĩa như sự giảm huyết áp tâm thu 1 khoảng lớn hơn 20mmHg và/hoặc giảm huyết áp tâm trương hơn 10mmHg, xảy ra trong vòng 3 phút khi chuyển từ vị trí nằm sang đứng và được điều chỉnh khi ngủ.
– Nguy cơ hạ huyết áp thế đứng tăng trong trường hợp tiểu đường, tăng glycerid máu, bệnh về thần kinh như bệnh Parkinson, bầu không khí quá nóng, thậm chí nóng bức.
– Nhiều loại thuốc có thể gây ra hoặc làm nặng thêm tình trạng hạ huyết áp thế đứng: thuốc hạ huyết áp, dẫn xuất của nitrat, thuốc chẹn thụ thể alpha được dùng trong điều trị bệnh u xơ tuyến tiền liệt, thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm 3 vòng, thuốc trị Parkinson. Cần phải thông báo cho bệnh nhân về nguy cơ té ngã và lợi ích của việc ngồi dậy trong 2 giai đoạn, đặc biệt trong thời gian đầu trị liệu như vậy.