Menu

HAI CA LÂM SÀNG TƯ VẤN TẠI QUẦY THUỐC

Ca 1. Kem chống nắng
Bà H., 45 tuổi, đến nhà thuốc của bạn và hỏi về sự lựa chọn kem chống nắng. Bà H. có làn da trắng và nói rõ : “Tôi rất dễ bị bắt nắng nhưng khi tôi sử dụng một loại kem làm rám da, tôi cảm thất tốt hơn trong mùa hè”. Bà H. không biết về dị ứng thuốc và hiện nay bà không sử dụng bất kì loại thuốc nào.
Dược sĩ nên đề nghĩ kem chống nắng nào phù hợp với bà H.?

Trả lời:
Điều quan trọng là hướng dẫn bệnh nhân rằng bất kì dấu hiệu nào của da rám nắng đều là bằng chứng của tổn thương da, sử dụng kem làm rám da không ngăn chặn da bị tổn thương . Da rám nắng hay cháy nắng thường là do tia UV-B, mặc dù cả tia UV-A và UV-B đều góp phần hình thành ung thư da. Khi lựa chọn kem chống nắng, dược sĩ nên khuyến cáo lựa chọn kem chống nắng phổ rộng, có thể bảo vệ khỏi tác động của tia UV-A và UV-B. Có 2 loại kem chống nắng thường được chọn: kem chống nắng vật lý như titan dioxid hoặc zinc oxid và kem chống nắng hóa học. Kem chống nắng vật lý lưu lại ở lớp trên cùng của da và phản xạ, phân tán và hấp thụ tia UV-A và UV-B; kem chống nắng vật lý là lựa chọn tốt nhất cho trẻ em và những bệnh nhân có da nhạy cảm. Kem chống nắng hóa học được hấp thu vào trong da và chuyển UV-A và / hoặc UV-B thành nhiệt. SPF là một yếu tố quan trọng cần quan tâm khi lựa chọn kem chống nắng phù hợp vớbà H.. SPF là một chỉ số đo lường mức độ bảo vệ da khỏi tác động tia UV-B, và khi tăng gấp đôi chỉ số SPF không làm tăng gấp đôi tác động bảo vệ. Chỉ số SPF 15 ngăn chặn được 93% tia UV-B, trong khi SPF 30 và SPF 50 ngăn chặn được 97% và 98% tia UV-B. Vì bà H. có da trắng, dược sĩ nên khuyến cáo loại kem chống nắng thích hợp có chỉ số SPF ít nhất là 30 . cũng nên chắc chắn rằng sản phẩm được dán nhãn “phổ rộng” để bảo vệ da khỏi tác hại cả hai loại UV-A và UV-B.

Ca 2. Viêm xoang
Ông P., 72 tuổi, đến nhà thuốc của bạn với đơn thuốc gồm sulfamethoxazol/trimethoprime (SMX/TMP) 800/160 mg đường uống x 2 lần/ngày x 7 ngày. Ông P. nói rằng ông ấy không cảm thấy khỏe gần đây, vì vậy ông đến gặp bác sĩ , bác sĩ đã chẩn đoán ông bị viêm xoang mức độ trung bình. Sau khi xem xét hồ sơ của ông P., bạn thấy ông đang sử dụng thuốc metformin và lisiopril. Ông P. mắc bệnh đái tháo đường typ 2, và do nhiều năm không kiểm soát tốt đường huyết, ông đã được chẩn đoán suy thận.
Dược sĩ cần quan tâm gì về việc sử dụng thuốc sulfamethoxazol/trimethoprime (SMX/TMP) của ông P.?

Trả lời:
Trimethoprim được đào thải qua thận, và làm giảm đào thải kali, vì vậy thuốc có thể dẫn đến tăng kali huyết. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng 6% bệnh nhân sử dụng SMX/TMP có tiến triển tăng kali huyết và và làm tăng nguy cơ khi bệnh nhân đồng thời sử dụng các thuốc làm tăng nồng độ kali như thuốc ức chế enzyme chuyển hóa angiotensin (ACEI), thuốc đối kháng thụ thể angiotensin 2 (ARB) và thuốc đối kháng aldosteron (ví dụ spironolacton). Nên tránh sử dụng SMX/TMP ở những bệnh nhân có nguy cơ cao đối với tăng kali huyết: tuổi trên 65, suy thận, đái tháo đường, suy tim hoặc dùng thuốc giảm đào thải kali. Bởi vì ông P. có nhiều yếu tố nguy cơ đã nêu ở trên, nên ông có nguy cơ cao tăng kali huyết, SMX/TMP không phải là sự lựa chọn tốt nhất để điều trị nhiễm trùng xoang, dược sĩ nên đưa ra lời khuyên sử dụng amoxicillin/clavulanat (Augmentin) 875/125 mg, đường uống x 2 lần/ ngày x 5-7 ngày như một sự lựa chọn thay thế để điều trị nhiễm trùng xoang.

Nguồn: Case Studies (November 2015), Jonathan T. Caranfa, PharmD; Christine G. Kohn, PharmD; and Craig I. Coleman, PharmD, Published Online: Tuesday, November 17, 2015.
Người dịch: SVD5. Lê Thị Thảo, Đại Học Y Dược Tp. HCM.

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.