Menu

Chuyển đổi điều trị từ đường tĩnh mạch sang đường uống

Người dịch: Trần Thị Thu Thảo – Trường ĐHYD Huế

Hiệu đính: DS. Vũ Tiến Đạt

Nguồn: Intravenous-to-Oral Switch Therapy. Medscape

 

KHÁNG SINH

Các phương án chuyển đổi điều trị

Chuyển đổi điều trị khả thi với nhiều kháng sinh đường uống. Những kháng sinh lý tưởng cho việc chuyển đổi từ đường tĩnh mạch sang đường uống (IV à PO) bao gồm chlorampenicol, clindamycin, metronidazole, trimethoprim—sulfamethoxazole, fluconazole, itraconazole, voriconazole, doxycycline, minoxycline, levofloxacin, moxifloxacin, và linezolid.[25] Điều trị kháng sinh nối tiếp đảm bảo một chuyển đổi sớm sang đường uống khi bệnh nhân bắt đầu có tình trạng lâm sàng ổn định. Chiến lược này được sử dụng ngày càng phổ biến bởi tính an toàn, khả năng nâng cao chất lượngchi phí hiệu quả trong điều trị. Sự chuyển đổi điều trị thích hợp và đúng thời điểm cần phải được cân nhắc bởi hướng dẫn điều trị rõ ràng và được sự đồng thuận của hội đồng điều trị. Theo một số chuyên gia, khoảng 40% bệnh nhân bắt đầu điều trị với kháng sinh đường tĩnh mạch được cân nhắc chuyển đổi sang đường uống sau 2-3 ngày điều trị.

Vào năm 2004, Vogtlander cùng các đồng nghiệp, tại khoa Nội tổng hợp, trường đại học Y khoa trung tâm Nijmegen, Hà Lan, trong một nghiên cứu liên tục trên tất cả bệnh nhân được điều trị kháng sinh tại các khoa phòng liên quan như khoa nội, phẫu thuật, khoa thần kinh và khoa cấp cứu của bệnh viện thực hành của trường đại học. Điều tra nghiên cứu bao gồm liều dùng, thời gian liều dùng đầu tiên, khoảng đưa thuốc, đường đưa thuốc, và các điều chỉnh lựa chọn thuốc theo dữ liệu lâm sàng. Sau thời kỳ tiền can thiệp, những rào cản để thay đổi đã được xác định, theo sau đó là những can thiệp cụ thể và đánh giá sau can thiệp. Trong các thời kỳ trước và sau can thiệp, kết quả ghi nhận được lần lượt có 247 và 250 bệnh nhân, đã được kê 563 và 598 đơn kháng sinh.

Thời gian trung bình từ khi kê đơn tới  liều đầu tiên tại bệnh phòng đã được cải thiện từ 2,7 xuống còn 1,7 giờ trong các ca bệnh nghiêm trọng tiềm ẩn (P = 0,003). Việc điều chỉnh liều theo chức năng thận duy trì không thay đổi 45% so với 52% số ca bệnh khi cần thiết (P = 0,09). Chuyển đổi từ đường tĩnh mạch sang đường uống được cải thiện từ 46% lên 62% (P = 0,03) và được tiến hành sớm hơn trung bình 1,6 ngày (P = 0,002). Đơn giản hóa trong điều trị được tiến hành một cách chính xác trên hầu hết các ca bệnh, do vậy, không cần thiết có thêm can thiệp. Thời gian điều trị kháng sinh và liệu pháp chuyển đổi có thể được cải thiện nếu kết hợp với các biện pháp can thiệp. Những chiến lược điều trị khác là cần thiết để cải thiện sự điều chỉnh liều hạn chế theo mỗi chức năng thận. Trong nghiên cứu này, đơn giản hóa điều trị đã chính xác trong hầu hết các ca bệnh. [26]

Fluoroquinolon

Kháng sinh nhóm fluoroquinolon phù hợp cho chuyển đổi điều trị.

Levofloxacin và ofloxacin

Dạng dùng tĩnh mạch và dạng uống của levofloxacin là tương đương sinh học trên cùng một liều, cho phép chuyển đổi hay xuống thang từ dạng tiêm truyền sang dạng uống của cùng một thuốc với cùng một liều lượng. Vào những năm cuối thập niên 90, ofloxacin cũng đã được sử dụng cho liệu pháp chuyển đổi, tuy nhiên vai trò của nó trong chuyển đổi này chưa  rõ do kháng sinh này được sử dụng với liều hai lần một ngày còn levofloxacin là kháng sinh được sử dụng với liều một lần một ngày.Kháng sinh nhóm Fluoroquinolon không nên sử dụng cho trẻ em vì những ảnh hưởng nghiêm trọng có thể xảy ra trên sụn.

Sinh khả dụng đường uống của Levofloxacin là gần như hoàn toàn (99%), cho thấy đường uống có thể cung cấp lượng tiếp xúc toàn thân tương đương như đường tĩnh mạch. Tỉ lệ thành công chung trên lâm sàng cho chuyển đổi này đạt 94,1%. Trên nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát, trong vòng 5-14 ngày điều trị với Levofloxacin tiêm tĩnh mạch và/hoặc đường uống đã chứng minh được hiệu quả điều trị trên những bệnh nhân nhiễm khuẩn đường hô hấp trên và dưới. Trên những bệnh nhân viêm phổi mắc phải tại cộng đồng với mức độ từ nhẹ đến nặng, việc sử dụng levofloxacin tĩnh mạch và/hoặc đường uống với liều 500 mg 1 hoặc 2 lần/ngày cho thấy có hiệu quả tương đương như khi sử dụng clarithromycin, azithromycin, và amoxicillin/acid clavulanic. Nhìn chung, tỉ lệ đáp ứng với levofloxacin trên lâm sàng là 86-95% so với 88-96% ứng với tỉ lệ này trên thuốc đối chiếu; tỉ lệ đáp ứng với vi khuẩn tương ứng là 88-95% và 86-98%.

Năm 2005 trong một nghiên cứu, Pablos và đồng nghiệp đã báo cáo về số lượng sử dụng kháng sinh nhóm quinolon (ví dụ ofloxacin, levofloxacin, ciprofloxacin) trong vòng 6 tháng trước và sau khi thực hiện chương trình điều trị nối tiếp trên những bệnh nhân hiện nằm viện. Một chương trình đã được tính toán cho mỗi loại kháng sinh, cả dạng uống và dạng  tĩnh mạch, xét về  liều dùng xác định theo ngày/100 giường bệnh” và chi phí điều trị (chi phí mua thuốc). Tại thời điểm bắt đầu chương trình, ofloxacin đã được thay thế bằng levofloxacin và bởi việc sử dụng của hai kháng sinh trên lâm sàng là giống nhau, số lượng sử dụng cả hai kháng sinh đã được đối chiếu so sánh trong suốt thời kỳ nghiên cứu.

Xét về chi phí điều trị, số lượng sử dụng quinolon tĩnh mạch giảm 60%, trong khi đó số lượng này ở quinolon đường uống lại tăng 66%. Xét về “liều dùng xác định theo ngày/100 giường bệnh”, số lượng sử dụng ở dạng tĩnh mạch giảm 53% và dạng uống tăng 36%. Pablos và đồng nghiệp đã tập trung vào nhóm quinolon và cách dùng của nhóm kháng sinh này trong khi thực hiện chương trình điều trị nối tiếp dựa trên việc thúc đẩy một chuyển đổi sớm từ dạng tĩnh mạch sang dạng uống. Họ đã chứng minh năng lực của chương trình tới thay đổi đặc trưng sử dụng của những kháng sinh này. Trong suốt thời gian nghiên cứu, chương trình đã đạt được một thành tựu trong việc tiết kiệm chi phí cho sử dụng thuốc tại bệnh viện là 41.420 đôla. [27]

Levofloxacin (Levaquin) có hoạt tính chống lại chủng phế cầu, bao gồm cả chủng đề kháng với penicillin được phân lập, và có hoạt tính trên trực khuẩn Gram(-) hiếu khí nhưng không bao gồm Pseudomonas. Kháng sinh này có thể sử dụng để điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng. Liều dùng ở người lớn là 500 mg uống 1 lần/ngày trong vòng 7-14 ngày. Kháng sinh này không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ em. Levofloxacin là một thuốc được phân loại vào nhóm C cho thai kỳ

Ofloxacin (Floxin) xâm nhập tốt vào tiền liệt tuyến và có hiệu quả đối với chủng Chlamydia trachomatis. Kháng sinh này có nguồn gốc từ acid pyridine carboxylic và có phổ diệt khuẩn rộng. Nó được sử dụng đặc biệt trong điều trị viêm tiền liệt tuyến và nhiễm trùng đường tiết niệu. Ở người lớn, liều dùng trong điều trị viêm tiền liệt tuyến là 400 mg uống 1 lần duy nhất, trong khi liều dùng trong trường hợp điều trị viêm tiền liệt tuyến mạn tính là 200-400 mg đường uống mỗi 12 giờ. Kháng sinh này cũng không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ em. Ofloxacin cũng là thuốc được phân loại vào nhóm C cho thai kỳ.

Ciprofloxacin

Ciprofloxacin cũng có vai trò trong chuyển đổi điều trị từ đường tĩnh mạch sang đường uống. Giamarellou và cộng sự đã chứng minh rằng liều cao ciprofloxacin dùng đường tĩnh mạch trong vòng ít nhất 3 ngày và sau đó chuyển sang đường uống có hiệu quả điều trị tương đương so với liệu trình ceftazidime kết hợp amikacin dùng đường tĩnh mạch thông thường, ngay cả trên những bệnh nhân có sốt kèm theo giảm bạch cầu nghiêm trọng (số lượng bạch cầu hạt giảm xuống dưới 100/µL). [28]

Solomkin và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên những bệnh nhân có tình trạng nhiễm trùng ổ bụng phức tạp, được lựa chọn một cách ngẫu nhiên để tiếp nhận một trong hai liệu trình sau (1) ciprofloxacin dùng đường tĩnh mạch kết hợp metronidazole hoặc imipenem dùng đường tĩnh mạch trong suốt đợt điều trị hoặc (2) ciprofloxacin dùng đường tĩnh mạch kết hợp metronidazole và điều trị với ciprofloxacin đường uống kết hợp metronidazole khi chức năng tiêu hóa đã hồi phục. Nghiên cứu đã chứng minh sự tương đương có giá trị thống kê giữa ciprofloxacin dùng đường tĩnh mạch kết hợp metronidazole và imipenem dùng đường tĩnh mạch trên cả mục tiêu điều trị và quần thể hợp lệ. Sự chuyển đổi sang liệu pháp sử dụng Ciprofloxacin đường uống kết hợp với metronidazole cho thấy hiệu quả tương đương khi điều trị tiếp tục bằng đường tĩnh mạch trên những bệnh nhân có khả năng dung nạp tốt bằng đường uống. [29]

Ciprofloxacin (Cipro) là kháng sinh thuộc nhóm fluoroquinolon với hoạt tính chống lại Pseudomonas và hầu hết vi khuẩn Gram (-) tuy nhiên không có hoạt tính trên vi khuẩn kỵ khí. Kháng sinh này ức chế sự tổng hợp ADN, và kết quả là ức chế sự nhân lên của vi khuẩn. Tiếp tục điều trị trong ít nhất khoảng 2 ngày (phác đồ thông thường 7-14 ngày) sau khi các dấu hiệu và triệu chứng đã biến mất. Liều ở người lớn là 250-500mg đường uống 2 lần/ngày trong 7-14 ngày. Kháng sinh này không được sử dụng ở trẻ em. Ciprofloxacin là thuốc được phân loại vào nhóm C cho thai kỳ.

Moxifloxacin

Năm 2003, một thử nghiệm đã được báo cáo bởi Drummond và đồng nghiệp so sánh đơn trị liệu nối tiếp đường tĩnh mạch/đường uống moxifloxacin (400 mg/ngày) với co-amoxiclav đường tĩnh mạch/đường uống (1,2 g đường tĩnh mạch/625 mg đường uống 3 lần/ngày) có kết hợp hoặc không kết hợp clarithromycin (500 mg hai lần/ngày) trong vòng 7-14 ngày ở bệnh nhân nhập viện với dấu hiệu viêm phổi mắc phải cộng đồng và nhận thấy rằng đơn trị liệu moxifloxacin đường tĩnh mạch/đường uống cho thấy có những lợi ích trên lâm sàng, bao gồm tăng tốc độ đáp ứng, chi phí hiệu quả điều trị hơn so với sử dụng co-amoxiclav đường tĩnh mạch/đường uống kết hợp hoặc không kết hợp clarithromycin. [30]

Tương tự, vào năm 2002, Finch và đồng nghiệp chỉ ra rằng đơn trị liệu moxifloxacin có ưu thế hơn so với phác đồ kết hợp chuẩn của một kháng sinh beta-lactam và một chất ức chế beta-lactamase (co-amoxiclav) kèm hoặc không kèm macrolide (clarithromycin) trong điều trị bệnh nhân mắc viêm phổi mắc phải cộng đồng đã được nhập viện. [31]

Đặc biệt, Finch và đồng nghiệp đã đề cập đến những lợi điểm của moxifloxacin không phụ thuộc đến mức độ nghiêm trọng của viêm phổi và bất kể liệu phương pháp điều trị này có bao gồm sự kết hợp với macrolide hay không.Thời gian hạ sốt cũng ngắn hơn có giá trị thống kê trên bệnh nhân được điều trị với moxifloxacin (Thời gian trung bình, 2-3 ngày), và thời gian nằm viện ngắn hơn xấp xỉ 1 ngày ở nhóm bệnh nhân sử dụng moxifloxacin. Điều trị được chuyển đổi sang đường uống ngay lập tức sau thời kỳ 3 ngày điều trị bắt buộc bằng đường dùng tĩnh mạch ở tỉ lệ lớn hơn ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng moxifloxacin so với nhóm đối chứng (151 [50,2%] so với 57 [17,8%]). Tử vong ít hơn (9 [3%] so với 17 [5,3%] và ít biến cố nghiêm trọng hơn (38 [12,6%] so với 53 [16,5]) cũng được báo cáo ở nhóm bệnh nhân điều trị với moxifloxacin so với nhóm đối chứng. [31]

Delafloxacin

Tháng 6 năm 2017, FDA đã chấp thuận Baxdela (delafloxacin) trong điều trị nhiễm trùng da cấp tính và nhiễm trùng cấu trúc da. Phê duyệt cho delafloxacin được hỗ trợ bởi hai nghiên cứu pha III ở các bệnh nhân nhiễm trùng cấu trúc da cho thấy delafloxacin đơn trị liệu dùng đường tĩnh mạch và đường uống không kém hơn một cách thống kê so với kết hợp của vancomycin với aztreonam tại điểm cuối sơ cấp của FDA cho đáp ứng lâm sàng sớm ở 48-72 giờ [104]. [105] Baxdela có hoạt tính ức chế trên cả vi khuẩn Gram(+), Gram(-), bao gồm tụ cầu vàng đề kháng Methicillin (MRSA) và có sẵn dạng bào chế cho cả đường tĩnh mạch và đường uống. Sinh khả dụng đường uống đạt 58,8% với liều 450 mg tương đương với liều 300 mg truyền tĩnh mạch trong 1 giờ, cho phép điều trị nối tiếp bằng đường uống. Delafloxacin thải trừ qua thận và không bị tác động bởi enzyme chuyển hóa CYP450. Liều khuyến cáo sử dụng cho đường tĩnh mạch là 300 mg mỗi 12 giờ, và đường uống 450 mg uống mỗi 12 giờ. [103]

Cephalosporin

Chuyển đổi tương tự có thể đạt hiệu quả với các kháng sinh cephalosporin. Các thuật toán điều trị đã được thẩm định, như là Phân loại viêm phổi mắc phải cộng đồng, hiện tại cho phép đưa ra các quyết định liên quan đến bệnh nhân mắc viêm phổi cần nhập viện và các quyết định trong đó bệnh nhân sẽ có lợi ích từ chuyển đổi điều trị sớm. Thông thường, bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng đồng không ổn định là đối tượng phù hợp cho chuyển đổi điều trị sớm, trong đó bao gồm điều trị khởi đầu nhanh đường tĩnh mạch trong 1-2 ngày, theo sau 5 ngày điều trị đường uống, và xuất viện sớm sau khi dùng 1-2 liều kháng sinh đường uống.

Cefuroxime, cefuroxime axetil, cefixime và cefetamet pivoxil

Những nghiên cứu về liệu trình điều trị bằng cefuroxime đường tĩnh mạch nối tiếp bằng cefuroxime axetil đường uống gợi ý phác đồ này cho thấy cả tính hiệu quả và khả năng dung nạp tốt như một liệu pháp chuyển đổi nhanh và tiềm năng giảm thiểu chi phí điều trị, cải thiện sự hài lòng của bệnh nhân. Đặc biệt, Van den Brande và cộng sự chỉ ra rằng sử dụng cefuroxime đường tĩnh mạch 2 lần/ngày nối tiếp bằng cefuroxime axetil đường uống là một phác đồ nối tiếp đơn giản và hiệu quả trong điều trị viêm phổi mắc phải cộng đồng. [32]

Hamilton-Miller nhận thấy rằng chuyển đổi điều trị với cefixime sau 2-3 ngày được dùng điều trị nhiễm trùng nghiêm trọng cho thấy kết quả cải thiện tốt trên lâm sàng. [33] Tương tự, Dagan và cộng sự nhận thấy rằng sau khi điều trị 1 hoặc 2 ngày với ceftriaxone đường tiêm trước khi chuyển sang cefetamet pivoxil đường uống là an toàn và hiệu quả trong điều trị viêm phổi ở trẻ nhỏ. [34] Điều này gợi ý rằng liệu pháp chuyển đổi sang đường uống là một lựa chọn khả thi trong điều trị viêm phổi mắc phải cộng đồng nghiêm trọng ở trẻ nhỏ.

Cefuroxime (Ceftin, Kefurox, Zinacef) là một Cephalosporin thế hệ 2 có hoạt tính trên vi khuẩn Gram(+) tương tự như Cephalosporin thế hệ 1 và có thêm hoạt tính kháng lạị các chủng như Proteus mirabilis, Haemophilus influenzae, Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Moraxella catarrhalis. Tùy theo từng trường hợp bệnh nhân với những mức độ nhiễm trùng khác nhau và căn cứ tính nhạy cảm của vi sinh vật để xác định liều và đường đưa thuốc phù hợp. Liều ở người lớn 500 mg uống 2 lần/ngày trong 20 ngày hoặc có thể thay bằng 750-1500 mg tiêm tĩnh mạch/tiêm bắp mỗi 8 giờ , không được vượt quá 6 g/ngày. Trẻ em với liều 250 mg uống 2 lần/ngày trong 20 ngày. Sử dụng liều ở người lớn cho thanh thiếu niên. Cefuroxime được phân loại thuộc nhóm C cho thai kỳ.

Cefixim (Suprax) có hoạt tính trên trực khuẩn Gram(-) hiếu khí. Kháng sinh này ức chế sự tổng hợp thành tế bào vi khuẩn và ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn bằng cách gắn với một hoặc nhiều protein gắn penicillin). Liều ở người lớn là 400 mg uống 1 lần/ngày (khuyến cáo sử dụng trong nhiễm khuẩn lậu cầu), hoặc với liều 200 mg đường uống mỗi 12 giờ hoặc 400 mg uống 1 lần/ngày hoặc có thể chia nhỏ liều với khoảng cách đưa liều là 12 giờ. Trẻ em dưới 12 tuổi sử dụng với liều 8 mg/kg cân nặng 1 lần/ngày hoặc 4 mg/kg hai lần/ngày. Trẻ em có cân nặng trên 50 kg hoặc lớn hơn 12 tuổi, liều cefixime tương đương như người lớn. Cefixime được phân loại thuộc nhóm B cho thai kỳ.

Ceftriaxone và ceftibuten

Fernandez và San Martin đã nghiên cứu trên 40 bệnh nhân nhập viện do viêm phổi mắc phải cộng đồng. Ban đầu những bệnh nhân này được điều trị với ceftriaxone đường tĩnh mạch (1 g/ngày) và có những dấu hiệu lâm sàng được cải thiện sau 3 ngày điều trị. Họ được chỉ định ngẫu nhiên tiếp tục điều trị với ceftriaxone đường tĩnh mạch trong 10 ngày hoặc chuyển sang ceftibuten (400 mg/ngày) trong 7 ngày. Có 21 bệnh nhân tiếp tục sử dụng điều trị với ceftriaxone đường tĩnh mạch và 19 người còn lại chuyển qua dùng ceftibuten. Theo dõi điều trị trên lâm sàng, kết quả chụp X-quang được cải thiện và số lượng bạch cầu ở mức bình thường, không có sự khác biệt giữa hai nhóm đối tượng. [35] Điều này góp phần cho thấy hiệu quả tương đương của liệu pháp chuyển đổi trong trường hợp này.

Ceftriaxone (Rocephin) là một Cephalosporin thế hệ 3 có phổ kháng khuẩn rộng, có hoạt tính trên vi khuẩn Gram(-). Tuy nhiên có hiệu lực thấp hơn trên vi khuẩn Gram(+). Ceftriaxone kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn thông qua việc gắn với một hoặc nhiều protein gắn penicillin. Ở người lớn với các nhiễm khuẩn thông thường, sử dụng với liều 250 mg tiêm bắp/lần, không quá 4 g/ngày. Trong trường hợp nhiễm khuẩn nặng, liều 1-2 g tiêm tĩnh mạch 1 lần/ngày hoặc chia thành 2 lần/ngày, không quá 4 g/ngày. Liều 50-75 mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp 1 lần/ngày, không quá 125 mg/ngày đối với trẻ sơ sinh trên 7 ngày tuổi. Liều này trên trẻ nhỏ là 50-75 mg/kg tiêm tĩnh mạch/tiêm bắp 1 lần/ngày hoặc chia nhỏ liều mỗi liều cách nhau 12 giờ, không được quá 2 g/ngày. Ceftriaxone được phân loại thuộc nhóm B cho thai kỳ.

Ceftibuten (Cedax) là kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 diệt khuẩn thông qua ức chế tổng hợp vách tế bào mucopeptide. Liều trên người lớn là 400 mg uống 1 lần/ngày trong 10 ngày, không quá 400 mg/ngày. Sử dụng liều 4,5mg/kg hoặc 200 mg uống 1 lần/ngày khi tốc độ thanh thải Creatinin là 30-49 ml/phút, liều 2,25mg/kg hoặc 100 mg uống 1 lần/ngày khi tốc độ thanh thải Creatinin dưới 30 ml/ phút. Liều ở trẻ dưới 12 tuổi là 9 mg/kg uống 1 lần/ngày trong 10 ngày, không quá 400 mg/ngày, và liều ở trẻ trên 12 tuổi là tương đương như người lớn. Ceftibuten được phân loại thuộc nhóm B cho thai kỳ.

Macrolide

Những kháng sinh thuộc nhóm Macrolide có thể sử dụng trong chuyển đổi điều trị bao gồm azithromycin và clarithromycin.

Azithromycin

Macrolide Azithromycin dường như có hiệu lực tốt hơn cephalosporin cefuroxime trong liệu pháp đường tĩnh mạch và là một thuốc nối tiếp trong  chuyển đổi sang đường uống. Điều này được nêu ra trong phân tích chi phí điều trị hiệu quả của phác đồ chuyển đổi azithromycin từ tiêm tĩnh mạch sang đường uống so sánh với cefuroxime có hoặc không kèm theo erythromycin trong điều trị những bệnh nhân nhập viện vì viêm phổi mắc phải cộng đồng.

Azithromycin (Zithromax) có hoạt tính trên vi khuẩn Gram(+), các vi sinh vật gây viêm phổi không điển hình tuy nhiên bị kháng với chủng phế cầu đề kháng erythromycin. Kháng sinh này ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn, có thể bằng cách ngăn chặn sự phân ly của peptidyl tRNA tại ribosome, ngăn cản sự tổng hợp protein phụ thuộc RNA. Được sử dụng để điều trị các trường hợp nhiễm khuẩn từ nhẹ đến trung bình. Liều dùng ở người lớn là 500 mg uống trong ngày 1 và 250 mg uống từ ngày 2 tới ngày 5, hoặc có thể uống 1 g lần duy nhất. Liều ở trẻ em trên 6 tháng tuổi là 10 mg/kg uống (không được quá 500 mg/ngày) trong ngày 1 và 5 mg/kg uống 1 lần/ngày (không quá 250 mg/ngày) trong ngày thứ 2 đến ngày thứ 5.Liều dùng ở trẻ em dưới 6 tháng tuổi vẫn chưa được thiết lập. Azithromycin được phân loại thuộc nhóm B cho thai kỳ.

Clarithromycin

Clarithromycin có thể được sử dụng trong phác đồ chuyển đổi từ tiêm tĩnh mạch sang đường uống. Năm 2000, Parola và cộng sự đã báo cáo rằng trong số 290 bệnh nhân viêm ohỏi mắc phải cộng đồng được điều trị bằng clarithromycin với liều 500 mg 2 lần/ngày, đầu tiên được điều trị bằng đường tĩnh mạch pha trong 250 hoặc 500 ml dung dịch nước muối sinh lý và sau đó 4-5 ngày chuyển qua đường uống với liều tương đương. Theo dõi điều trị trong vòng 10-15 ngày cho thấy 261 trong tổng số 290 bệnh nhân (90%) có triệu chứng lâm sàng và hình ảnh trên X-quang được cải thiện. [36]

Kháng sinh khác

Một số loại kháng sinh có thể sử dụng trong chuyển đổi điều trị từ đường tĩnh mạch sang đường uống bao gồm clindamycin, ertapenem, linezolid, metronidazole, và trimethoprim—sulfamethoxazole.

Clindamycin

Martinez và cộng sự nhận thấy rằng liệu pháp chuyển đổi này có thể sử dụng khi dùng clindamycin. [37] Đặc biệt, một nghiên cứu đa trung tâm, theo thời gian, có kiểm soát đã so sánh hiệu quả trên lâm sàng, độ an toàn, và chi phí điều trị về sự can thiệp của dược sĩ nhằm nâng cao chuyển đổi nối tiếp clidamycin từ đường tĩnh mạch sang đường uống. Clindamycin được kê đơn trong trường hợp nhiễm trùng đường hô hấp ở trên 38,9% số bệnh nhân và dự phòng trong phẫu thuật với tỷ lệ 25,4% (71% bị nhiễm trùng trong quá trình phẫu thuật). Nghiên cứu được tiến hành trên tổng số 473 bệnh nhân đã được điều trị bằng clindamycin đường tĩnh mạch trong vòng ít nhất 72 giờ, được chia thành hai nhóm: một nhóm 204 bệnh nhân được can thiệp theo tờ thông tin hướng dẫn khuyến cáo điều trị nối tiếp bằng đường uống , và nhóm còn lại gồm 269 bệnh nhân có kiểm soát. Kết quả tương tự được thấy ở hai nhóm.

Clindamycin (Cleocin) kháng sinh thuộc nhóm lincosamide được sử dụng trong điều trị nhiễm trùng da và mô mềm do tụ cầu gây ra. Kháng sinh này cũng có hiệu quả trên chủng vi khuẩn hiếu khí và chủng liên cầu kỵ khí (ngoại trừ enterococci). Clidamycin ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn thông qua khả năng ngăn chặn sự phân ly của peptidyl t-RNA tại ribosom, ức chế sự tổng hợp protein phụ thuộc RNA. Liều trên người lớn là (1) 150-450 mg/liều uống cách nhau mỗi 6-8 giờ, không quá 1,8g/ ngày, hoặc (2) 600-1200 mg/ngày tiêm tĩnh mạch/tiêm bắp chia đều với khoảng cách đưa liều 6-8h tùy thuộc vào từng tình trạng nhiễm khuẩn. Liều trên trẻ em là 8-20 mg/kg/ngày đường uống dạng muối với hydrochloride hoặc 8-25 mg/kg/ngày đường uống dạng palmitate chia liều thành 3 lần hoặc 2 lần/ngày. Hoặc cách khác là có thể sử dụng 20-40 mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch/tiêm bắp chia liều thành 2 lần hoặc 3 lần/ngày. Clindamycin được phân loại thuộc nhóm C cho thai kỳ.

Ertapenem

Tính an toàn và hiệu quả của ertapenem tiêm tĩnh mạch (1 g/ngày) với lựa chọn chuyển đổi qua một kháng sinh đường uống trong điều trị nhiễm trùng đường tiểu nghiêm trọng ở người lớn được so sánh với những kháng sinh đường tiêm khác như ceftriaxone (1 g/ngày) với cùng lựa chọn kháng sinh chuyển đổi đường uống trong một nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, ngẫu nhiên theo thời gian. Tần suất và mức độ nghiêm trọng của những tác dụng bất lợi liên quan đến thuốc được đánh giá nói chung tương tự ở cả hai nhóm điều trị. Nghiên cứu này chỉ ra rằng ertapenem có hiệu quả tương đương với ceftriaxone trong khởi đầu điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu nghiêm trọng ở người lớn, có sự dung nạp tương đối tốt và có đặc trưng an toàn chung tương tự ceftriaxone. [38]

Linezolid

Năm 2003, Li và cộng sự chỉ ra rằng linezolid đường tĩnh mạch có thể chuyển sang điều trị nối tiếp bằng đường uống, phác đồ này được thấy đã rút ngắn thời gian nằm viện. [39] Thời gian chính xác của chuyển đổi phụ thuộc vào từng tình trạng bệnh trên lâm sàng, linezolid tiêm tĩnh mạch và đường uống có hiệu quả tương tự nhau. Linezolid sẵn có với các dạng chế phẩm dùng đường tĩnh mạch, viên nén bao phim và các dạng hỗn dịch đường uống. Linezolid có thể định lượng được trong dịch huyết thanh và các dịch khác của cơ thể và có sinh khả dụng tốt, nồng độ trong máu đạt đỉnh sau 0,5-2 giờ.

Metronidazole

Metronidazole có thể là một phần trong phác đồ điều trị của bệnh nhân chuyển đổi điều trị từ đường tĩnh mạch sang đường uống. So sánh điều trị giữa liệu pháp đường tĩnh mạch kéo dài và liệu pháp đường tĩnh mạch tiếp nối bởi kháng sinh đường uống là tương đương trong trường hợp trẻ nhỏ với bệnh lý viêm thủng ruột thừa. Tương tự, một nghiên cứu tập trung trên 8 bệnh nhân có áp xe não từ chối nhập viện dài ngày và chỉ được điều trị trong thời gian ngắn (6-12 ngày) bằng kháng sinh đường tĩnh mạch tiếp nối điều trị với phác đồ kháng sinh đường uống dài ngày (15-19 tuần) bao gồm metronidazole, ciprofloxacin và amoxicillin. Dựa trên những thăm khám lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh cho thấy tất cả những bệnh nhân đều có đáp ứng tốt với điều trị.

Năm 2003, Starakis và cộng sự so sánh tính hiệu quả và an toàn của liệu trình điều trị nhiễm trùng ổ bụng trong phức tạp ở trên 135 bệnh nhân bằng ciprofloxacin nối tiếp đường tĩnh mạch/đường uống kết hợp metronidazole nối tiếp đường tĩnh mạch/đường uống với liệu trình điều trị tương tự nhưng có sự khác biệt bằng cách thay thế ciprofloxacin thành ceftriaxone tiêm tĩnh mạch. Sự chuyển đổi sang sử dụng ciprofloxacin/metronidazole đường uống có hiệu quả tương đương khi sử dụng liệu pháp tiếp tục kết hợp ceftriaxone tiêm tĩnh mạch với metronidazol đường uống trên những bệnh nhân có khả năng dung nạp tốt bằng đường uống. [40]

Tương tự, vào năm 1996, trong một nghiên cứu Solomkin và cộng sự đã báo cáo rằng trong số những bệnh nhân ngẫu nhiên được điều trị bằng một trong hai liệu trình sau (1) ciprofloxacin kết hợp metronidazole đường tĩnh mạch hoặc imipenem đường tĩnh mạch trong suốt liệu trình điều trị (2) ciprofloxacin kết hợp metronidazole đường tĩnh mạch và điều trị với ciprofloxacin đường uống kết hợp metronidazole khi chức năng tiêu hóa đã được hồi phục, cho thấy những kết quả tương đương nhau. [29]

Trimethoprimsulfamethoxazole

Trimethoprim—sulfamethoxazole (Bactrim) có thể được sử dụng như là một phần trong phác đồ chuyển đổi từ đường tiêm tĩnh mạch sang đường uống. Năm 2002, Gollin và cộng sự đã báo cáo trong một nghiên cứu ở trên 80 trẻ em đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa do viêm thủng ruột thừa. Những đứa trẻ được an toàn xuất viện trở về nhà sau liệu trình điều trị 7 ngày với trimethoprim—sulfamethoxazole và metronidazole đường uống khi đường ruột dung nạp tốt, bất kể trong trường hợp có sốt hay tăng bạch cầu. [41]

Kháng sinh kháng nấm

Kháng sinh kháng nấm có thể được sử dụng trong chuyển đổi điều trị từ đường tĩnh mạch sang đường uống bao gồm itraconazole và fluconazole.

Itraconazole và fluconazole

Tính an toàn và hiệu quả trong sử dụng itraconazole đường tĩnh mạch và đường uống và fluconazole đường tĩnh mạch và đường uống trong dự phòng nhiễm nấm trên những bệnh nhân thực hiện cấy ghép đã được thiết lập và đánh giá cho thấy itraconazole dung nạp tốt hơn. Nhìn chung, trên những bệnh nhân có thể sử dụng các thuốc đường uống được, itraconazole và fluconazole được uống mà không gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc ảnh hưởng đến kết quả. Năm 2002, Purkins và đồng nghiệp chỉ ra rằng việc chuyển đổi voriconazole từ đường tĩnh mạch sang đường uống có thể đạt được hiệu quả. [42]

Đặc biệt, năm 2002, Winston và Busuttil đã báo cáo trong một nghiên cứu trên những bệnh nhân trưởng thành nhận cấy ghép gan, một cách ngẫu nhiên được điều trị bằng itracodazole dạng dung dịch đường uống (200 mg mỗi 12 giờ) hoặc fluconazole tiêm tĩnh mạch/đường uống (400 mg/ngày). Mỗi nghiên cứu về thuốc được tiến hành ngay trước khi tiến hành phẫu thuật cấy ghép và tiếp diễn trong 10 tuần sau khi cấy ghép. Những bệnh nhân này được đánh giá về sự xâm lấn của  nấm, lan tràn thực sự hoặc bội nhiễm nấm, những phản ứng nghiêm trọng liên quan đến thuốc, và tử vong. Kết quả thu được là tương tự nhau. [43]

Trên những bệnh nhân nhiễm trùng huyết do nấm Candida, những tiến trình thành công trong một nghiên cứu ở trên 57 bệnh nhân đã được phát triển bằng liệu pháp xuống thang đi từ echinocandin hoặc voriconazole đường tĩnh mạch đến fluconazole đường uống với chỉ một thất bại được ghi nhận. [44]

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.