Menu

Phương pháp sử dụng “trigger drug” để xác định các ADE

Phương pháp sử dụng “thuốc chỉ điểm” (trigger drugs) để xác định các biến cố có hại do thuốc

SVD5. Trần Thị Hồng Ngoan, ĐH Dược HN, DS. Võ Thị Hà

Mặc dù số lượng các báo cáo về các biến cố có hại do thuốc (ADE) được gửi về cơ quan an toàn cho bệnh nhân quốc gia đã tăng lên, vẫn có rất nhiều các ADE đã xảy ra mà không được báo cáo. Liệu dược sĩ có thể giúp giải quyết được vấn đề này ?

Dược sĩ có đầy đủ kiến thức và kỹ năng để phát hiện và báo các các biến có hại do thuốc (ADEs), bao gồm các phản ứng có hại của thuốc (ADR) và các sai sót liên quan đến thuốc (ME). Ở Anh, các dược sĩ kiểm tra tất cả các thuốc được dùng cho bệnh nhân nội trú theo từng ngày. Trong quá trình này, họ sẽ gặp các bệnh nhân được kê một số thuốc để điều trị ADEs hoặc những bệnh nhân phải ngừng thuốc gây ra biến cố đó. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều trường hợp xuất hiện biến cố mà không được báo cáo.

Một phương pháp để thúc đẩy báo cáo ADE là cung cấp cho dược sĩ các thông tin rõ ràng về các loại biến cố và một công cụ để xác định các biến cố ngay khi nó xảy ra.

Thuốc chỉ điểm “Trigger drugs”

Thuốc được kê sử dụng để ngăn ngừa  các hậu quả do một ADE được gọi là thuốc chỉ điểm (“trigger drugs”). Các thuốc này bao gồm thuốc giải độc (VD naloxone, flumazenil, vitamin K, glucagon), thuốc điều trị các triệu chứng của ADE, hoặc thuốc làm giảm các tác dụng không mong muốn của thuốc (VD Canxi gluconate để điều trị tăng Ka huyết). Danh sách các thuốc này được đề cập tại bảng phía dưới.

 

Danh sách các thuốc chỉ điểm “trigger drugs”

Thuốc

Các biến cố bất lợi có thể dùng

Thuốc trị tiêu chảy*

Tiêu chảy

Thuốc trị nôn*

Nôn do dùng thuốc

Beriplex  (dried  prothrombin complex)

Quá liều thuốc chống đông do wafarin

Calcium gluconate

Tăng K huyết do thuốc

Chlorphenamine IV

Dị ứng thuốc

Corticosteroids (topical)

Phát ban do thuốc

Dextrose 20% / insulin 10 units

Tăng K huyết do thuốc

Diphenhydramine*

Dị ứng thuốc

Flumazenil*

An thần quá mức sau khi dùng  benzodiazepine

Glucagon

Hạ đường huyết do thuốc

Glucose 50%

Hạ đường huyết do thuốc

Hydrocortisone IV

Sốc phản vệ

Hydroxyzine

Dị ứng thuốc

Ion-exchange resins*

Tăng K huyết do thuốc

Naloxone*

Suy hô hấp do opioid

Octaplex (factor IX)

Quá liều thuốc chống đông do wafarin

Omeprazole IV

Chảy máu dạ dày do thuốc

Vitamin K (phytomenadione)*

Quá liều thuốc chống đông do wafarin

 

 

Có thể dùng các thuốc chỉ điểm này để sàng lọc các bệnh án/bệnh nhân có thể gặp ADE. Tuy nhiên, chỉ giám sát các trường hợp được kê các thuốc chỉ điểm này thôi là chưa đủ. Thứ nhất là vì không phải tất cả các trường hợp có dùng thuốc chỉ điểm đều gợi ý gặp ADE  Ví dụ như , việc phải sử dụng omeprazol đường tiêm ở các cơ sở y tế là một dấu hiệu về xuất huyết tiêu hóa cấp tính, có thể do thuốc. Tuy nhiên, tại các phòng phẫu thuật, omeprazol đường tiêm thường xuyên được sử dụng sau phẫu thuật để phòng loét tiêu hóa do stress, chứ không phải là một chỉ điểm của ADE.

Thứ 2, trong một số trường hợp một thuốc chỉ điểm có thể được kê theo kiểu “dùng khi cần thiết”  tại thời điểm kê thuốc có nguy cơ cao gây ADE. Ví dụ như naloxone được chỉ định “dùng khi cần thiết” tại cùng thời điểm kê một opioid hay glucagon được kê “dùng khi cần thiết” cho các bệnh nhân phải sử dụng insulin. Do đó, điều quan trọng là phải kiểm tra xem liệu thuốc chỉ điểm có thực sự được sử dụng.

Dược sĩ có thể làm những gì?

Khi giám sát các thuốc sử dụng nội trú, dược sĩ có thể tìm thấy các bệnh án được kê thuốc chỉ điểm. Khi các thuốc này được sử dụng, dược sỹ nên tìm hiều nguyên nhân tại sao chúng được sử dụng.

Sau khi xác định bệnh nhân có dùng thuốc chỉ điểm, có thể sử dụng những bước đơn giản để xem ADE đó có phòng tránh được hay không, nếu phòng tránh được tức nó do một sai sót trong sử dụng thuốc (ME) gây ra, và cần được báo cáo. Ví dụ hình 1 là cách xác định  ADE liên quan đến vitamin K.

Tính đặc hiệu của các thuốc chỉ điểm là khác nhau. Có những thuốc chỉ điểm có tính đặc hiệu cao như Naloxone và flumazenil là một chỉ điểm tốt bởi chúng các thuốc giải độc đặc hiệu cho opioid và benzodiazepin. Tuy nhiên, nhựa trao đổi ion không phải một thuốc chỉ điểm tốt bởi chúng thường được chỉ định khi có tăng K, đây có thể là một triệu chứng của suy giảm chức năng thận hoặc là tác tác dụng phụ của thuốc (VD thuốc bổ sung K,  lợi tiểu giữ K hay ức chế men chuyển angiotesin).

Việc dùng Glucagon có thể là dấu hiệu để xác định các trường hợp hạ đường huyết. Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của hạ đường huyết thường khó xác định.

Những can thiệp nào là cần thiết?

Dược sĩ phải tìm ra nguyên nhân vì sao phải sử dụng thuốc chỉ điểm  để có thế xác định có phải là bệnh nhân đang gặp một ADE hay không và tiến hành các biện pháp ngăn ngừa chúng tái phát. Bệnh nhân có thể cần phải thay đổi phác đồ điều trị sau khi xảy ra ADE bằng các giảm liều hoặc giảm tần suất dùng thuốc thậm chí là ngừng thuốc hay dùng thuốc khác thay thế.

Thảo luận với bệnh nhân về các thuốc liên quan là cần thiết khi xác định ADE. Ví dụ các bệnh nhân được kê hydrocortison và chlorphenamin để điều trị dị ứng thuốc nghiêm trọng cần được hiểu rằng anh/ cô ấy cần tránh dùng lại  các thuốc gây dị ứng đó.

Hỗ trợ cho bác sĩ khi họ cần.  Ví dụ khi dược sĩ phát hiện ra bệnh nhân quá liều thuốc chống đông do tương tác của một thuốc khác với wafarin, họ có thể tư vấn cho các bác sĩ liệu pháp thay thế. Đây cũng là cơ hội để cung cấp các thông tin tổng quát về tương tác của các thuốc với wafarin và trong các trường hợp bệnh nhân cần giám sát chặt chẽ hơn.

Các ADE do các sai sót liên quan đến thuốc có thể đề xuất các giải pháp khắc phục như cung cấp cho tất cả các nhân viên thông qua các tờ cảnh báo, bản tin hoặc các buổi đào tạo.

Nguồn: http://www.pharmaceutical-journal.com/files/rps-pjonline/pdf/cp200912_practice_tools-484.pdf

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.