Menu

Viêm mô tế bào – ABCs

CHƯƠNG 20 – VIÊM MÔ TẾ BÀO

Dịch: BS. Lê Thị Liên

Hiệu đính: DS. Võ Thị Hà

Giống như những lâu đài thời trung cổ được thiết kế bức tường thành kiên cố để tránh những kẻ tấn công, thì cơ thể chúng ta cũng được bao phủ một lớp da bảo vệ, có hiệu quả không ngờ trong việc ngăn chặn vi khuẩn có khả năng thâm nhập làm tổn thương lớp mô sâu. Dù là môi trường đầy các vi sinh vật nhưng cơ thể vẫn được giữ an toàn nhờ có hàng rào này, điều đó chứng minh mức độ nhiễm trùng liên quan đến những lỗ hổng trên da, như là bỏng hay vết mổ.Viêm mô tế bào là một trong những bệnh lý nhiễm khuẩn thường xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập vào lớp trung bì và hạ bì.

Viêm mô tế bào (VMTB) thường có sốt và những triệu chứng tại chỗ, như là nhạy cảm, nóng, đỏ, sưng, da phù nề cứng, thường quanh vết thương hay vết trầy da có vai trò như là đường xâm nhập vào cơ thể. Trong một vài trường hợp, bệnh có thể tiến triển nặng nề, và xuất hiện triệu chứng nhiễm độc toàn thân gồm mạch nhanh, hạ huyết áp.

Vi khuẩn gây VMTB  phụ thuộc vào vị trí nhiễm trùng và một vài bất kỳ phơi nhiễm đặc biệt với nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ, VMTB xảy ra sau khi một vết thương tiếp xúc với nước biển thì gợi ý Vibrio vulnifcus là nguyên nhân.  VMTB liên quan đến vết loét ở chân  trên bệnh nhân đái tháo đường thì bị gây ra bởi vi khuẩn gram dương hiếu khí, vi khuẩn gram âm hiếu khí và vi khuần kỵ khí. Tuy nhiên, hầu hết VMTB ở bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường thì nguyên nhân đến từ sự xâm nhập của sinh vật trên da qua lỗ hỗng hay gián đoạn của thượng bì. Do đó, VMTB không biến chứng, cơ địa bình thường, không có tiếp xúc gì khác thường trước đó thì thường nguyên nhân là Staphylococcus aureus, Streptococcus pyogenes hoặc liên cấu khác (Bảng 20-1).

Vì khó có thể xác định vi khuẩn đặc hiệu gây bệnh, nên điều trị thường dựa vào kinh nghiệm và gồm các thuốc có phổ kháng khuẩn trên vi khuẩn gram dương (Bảng 20-2 và Hình 20.1) . Tuy nhiên, Staphylococcus aureusStreptococcus pyogenes ngày càng tăng sức đề kháng với kháng sinh, điều này làm phức tạp lựa chọn điều trị. Nhìn chung, nhiễm trùng nặng nên được điều trị nội trú bằng kháng sinh tiêm, trái lại với thể nhẹ và vừa thì có thể dùng đường uống cho bệnh ngoại trú. Ở những vùng mà tụ cầu kháng methicillin (MRSA) là phổ biến hay khi có các yếu tố thuận lợi khiến MRSA hiện diện (như là bệnh nhân có tiền sử nhiễm MRSA, đã từng dùng liệu trình kháng sinh gần đây), các lựa chọn đường tiêm nên dùng vào gồm glycopeptide (vancomycin, telavancin), linezolide, daptomycin, tigecylineceftaroline. Doxycycline, trimethoprime-sulfamethazole, linezolideclindamycin đường uống có thể được sử dụng. Nếu khả năng nhiễm MRSA là thấp, lựa chọn thích hợp cho đường tiêm gồm peniciline kháng tụ cầu (nafacilline, oxacillin), cephalosporin thế hệ 1 (cefazoline) hoặc clindamycin. Thuốc uống gồm dicloxacillin, cephalosporin thế hệ 1 dạng uống (cephalexin, cefadroxil), clindamycin hoặc macrolide (azithromycine, clarithromycine, erythromycin). Trong mọi trường hợp, lựa chọn thực tế nên dựa vào đặc điểm đề kháng tại địa phương.

Bảng 20-1 Vi khuẩn gây viêm mô tế bào

 

Vi khuẩn

Tỉ lệ gây bệnh

Staphylococcus aureus

13-37%

Streptococcus pyogenes

4-17%

Liên cầu khác

1-8%

                          

Bảng 20-2 Điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm trong viêm mô tế bào

Nhóm kháng sinh

Kháng sinh

Nếu nghi ngờ là tụ cầu vàng  kháng  methicillin

Bệnh nhẹ đến trung bình (đường uống)

Tetracycline

Doxycycline

Clindamycin

 

Sulfamid

Trimethoprime-sulfamethoxazole

Linezolid

 

Bệnh nặng (đường tiêm)

Glycopeptide

Vancomycine, televancin

Linezolide

 

Daptomycine

 

Tetracycline

Tigecycline, doxycycline

Cephalosporin thế hệ 5

ceftaroline

Nếu không nghi ngờ là tụ cầu vàng kháng methicillin

Bệnh nhẹ đến trung bình (đường uống)

Penicillin kháng tụ cầu

Dicloxacillin

Cephalosporin thế hệ 1

Cephalexin, cefadroxil

Clindamycin

 

Macrolide

Azithromycin, clarithromycin, erythromycin.

Bệnh nặng (đường tiêm)

Penicillin kháng tụ cầu

Nafcillin, oxacillin

Cephalosporin thế hệ 1

cefazolin

Clindamycin

 

 

Hình 20-1. Hoạt tính của các kháng sinh dùng điều trị viêm mô tế bào

Câu hỏi:

  1. Trên bệnh nhân miễn dịch bình thường, không có tiếp xúc bất thường, nguyên nhân phổ biến nhất gây VMTB là……………,………………., và ………………. khác.
  2. Điều trị theo kinh nghiệm thích hợp bằng đường uống cho một người thợ lợp nhà khỏe mạnh 48 tuổi, bị bệnh viêm mô tế bào tại vết trầy trên cánh tay, tiến triển không nặng nề và có nguy cơ MRSA thấp sẽ là……………., …………………., cephasporin thế hệ ……, hoặc…………….
  3. Ở bệnh nhân nguy cơ MRSA thấp, điều trị bằng đường tiêm thích hợp cho VMTB là………………..,……………………….,……………………. hoặc……………..
  4. Một phụ nữ 72 tuổi cấy vi khuẩn phát hiện nhiễm tụ cầu kháng methicillin MRSA , hiện tại huyết áp thấp và xuất hiện viêm mô tế bào trên chân trái tại vị trí mà trước đó vài năm đã cắt bỏ tĩnh mạch hiển thì điều trị thích hợp là…………., ……………………….., ………………….., ………………, hoặc ………………..

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.